cảm nhận bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc
gia sư giỏi tphcm nhận thấy đọc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ta gợi nhớ tới Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Hai bài văn, hai cảnh ngộ, hai thời buổi nhưng một dân tộc. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn, tụng ca các chiến công oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương chiến thắng làm rỡ ràng nước nhà. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca các người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang: Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc…muôn kiếp nguyện được phục thù chung…
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết trong bối cảnh nhân dân Nam bộ đang sôi sục trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trước sự nhu nhược của triều đình, những người dân cày phải tự mình đứng lên bảo vệ mảnh đất quê hương. Năm 1861, nghĩa quân nông dân đánh úp đồn giặc nhưng thất bại, hai mươi người hy sinh. Nguyễn Đình Chiểu được ủy thác bởi tuần phủ Gia Định viết bài văn tế này để ca tụng sự hy sinh vĩ đại của người nghĩa sĩ và cổ vũ, khích lệ phong trào đương đầu trên toàn bộ miền đất nước.
tuyển gia sư dạy kèm tại nhà biên hòa thấy lần thứ 1 trong văn học trung đại, hình tượng người nông dân xuất hiện ko còn là đối tượng của sự áp bức, bất công mà vươn lên là các người anh hùng, những con người hy sinh cho chính nghĩa. Hình tượng người nông dân xuất hiện trong văn chương cổ như biểu trưng của sự áp bức: “Thương thay thân phận con tằm/ Kiếm ăn được mấy bắt buộc nằm nhả tơ.” Họ là các người phải cù, chất phác nhưng cũng cực kỳ yếu đuối, cần người che chở. Và đó là sứ mạng của các bậc minh quân, trượng phu. Thế nhưng, trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, người đã phất lá cờ khởi nghĩa, đã không tiếc thân mình chống lại bọn giặc Tây, lại chính là các người dân cày đơn sơ, mộc mạc.
dạy kèm ở biên hòa thấy tác giả đã khắc họa chân dung của họ trong buổi đời thường thật giản dị biết bao: “Cui cút làm cho ăn; lo toan nghèo khó”. Quanh năm, học hỉ quen với công việc đồng áng: “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm”. Thế nhưng thời thế thay đổi, tiếng súng giặc Tây đã vang trên bờ cõi quê hương, những trang anh kiệt thì vắng bóng, triều đình chỉ là tấm bù nhìn. Đứng trước nguy cơ mất đi sự bình yên, người dân cày buộc nên tự đứng lên trơ thành người đánh tháo cho chính cuộc đời mình. Hình ảnh người nông dân không còn xuất hiện với sự yếu đuối, bị động mà vươn lên là thật kiêu hùng. tuyển gia sư tuyển gia sư tiếng anh tại bình dương thấy Từ sự chuyển biến trong hành động (“tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ…”) đến sự chuyển biến trong tình cảm (“bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn đến ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”). Từ đó, họ nhận thức được sứ mệnh của mình: “Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra công đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.” Sự chênh lệch to về lực lượng và vũ khí không làm cho người nông dân chùn bước. Chúng với “hỏa mai, dao phay, súng ống” cũng ko bằng quần chúng ta mang lòng căm thù. “Manh áo vải, bao tấu, bàu ngòi, rơm con cúi…” công cụ đấu tranh thô sơ có lực lượng chỉ được huấn luyện trong thời gian ngắn – “chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm cho quân chiêu mộ”. Chính khí thế căm thù ngất xỉu trời đấy đã làm bọn giặc “hồn kinh”. Sức mạnh của quần chúng cần lao đã được khai phá. Trước hiểm nguy, họ ko trốn chạy, không mong cầu vào những người sở hữu chức trách bảo vệ mình, mà chính họ cầm cái cuốc, cái cày để giành lại tự do. Ngôn từ mộc mạc, câu văn ngắn tạo nhịp điệu dập dồn gợi buộc phải ko khí chiến đấu.
Đặc biệt nghệ thuật so sánh được vận dụng đắc địa, cho thấy tương quan lực lượng chênh lệch của ta và địch. Vượt lên trên những khó khăn ấy là ý thức nghĩa hiệp, xả thân vì nghĩa lớn của người nghĩa sĩ nông dân.
trung tâm gia sư thăng long cho rằng Đó là sức mạnh tiềm tàng cũng chính là nguồn cội sức mạnh dân tộc. Hình tượng người nông dân dưới dòng nhìn của nhà Nho Nguyễn Đình Chiểu đã với một bước tiến lớn, họ trở thành biểu tượng trọng điểm của văn học, biểu tượng cho sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Trung tâm giáo viên uy tín tphcm thấy có lối văn tế biền ngẫu, hình ảnh sóng đôi giàu sức gợi, vừa phác họa được người nghĩa sĩ đơn sơ, vừa là hình ảnh thực của bọn giặc cướp nước. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ca tụng sự hy sinh cao cả của các người nông dân. Họ đã nối kết vận mệnh, mảnh đất, vườn rau của mình mang vận mệnh thiêng liêng của Tổ quốc. Sự hy sinh cao cả của họ trên trận mạc khiến cho Đồ Chiểu vô cộng cảm phục và đau xót. Nguyễn Đình Chiểu hiểu rõ tâm hồn của họ hơn ai hết, phải ông không nuối tiếc lời biểu dương sự nghiệp cứu nước thần thánh của họ. Bài văn tế đã trở nên nguồn động lực cỗ vũ ý thức kháng chiến cho rộng rãi thế hệ Nam Bộ.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết trong bối cảnh nhân dân Nam bộ đang sôi sục trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trước sự nhu nhược của triều đình, những người dân cày phải tự mình đứng lên bảo vệ mảnh đất quê hương. Năm 1861, nghĩa quân nông dân đánh úp đồn giặc nhưng thất bại, hai mươi người hy sinh. Nguyễn Đình Chiểu được ủy thác bởi tuần phủ Gia Định viết bài văn tế này để ca tụng sự hy sinh vĩ đại của người nghĩa sĩ và cổ vũ, khích lệ phong trào đương đầu trên toàn bộ miền đất nước.
tuyển gia sư dạy kèm tại nhà biên hòa thấy lần thứ 1 trong văn học trung đại, hình tượng người nông dân xuất hiện ko còn là đối tượng của sự áp bức, bất công mà vươn lên là các người anh hùng, những con người hy sinh cho chính nghĩa. Hình tượng người nông dân xuất hiện trong văn chương cổ như biểu trưng của sự áp bức: “Thương thay thân phận con tằm/ Kiếm ăn được mấy bắt buộc nằm nhả tơ.” Họ là các người phải cù, chất phác nhưng cũng cực kỳ yếu đuối, cần người che chở. Và đó là sứ mạng của các bậc minh quân, trượng phu. Thế nhưng, trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, người đã phất lá cờ khởi nghĩa, đã không tiếc thân mình chống lại bọn giặc Tây, lại chính là các người dân cày đơn sơ, mộc mạc.
dạy kèm ở biên hòa thấy tác giả đã khắc họa chân dung của họ trong buổi đời thường thật giản dị biết bao: “Cui cút làm cho ăn; lo toan nghèo khó”. Quanh năm, học hỉ quen với công việc đồng áng: “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm”. Thế nhưng thời thế thay đổi, tiếng súng giặc Tây đã vang trên bờ cõi quê hương, những trang anh kiệt thì vắng bóng, triều đình chỉ là tấm bù nhìn. Đứng trước nguy cơ mất đi sự bình yên, người dân cày buộc nên tự đứng lên trơ thành người đánh tháo cho chính cuộc đời mình. Hình ảnh người nông dân không còn xuất hiện với sự yếu đuối, bị động mà vươn lên là thật kiêu hùng. tuyển gia sư tuyển gia sư tiếng anh tại bình dương thấy Từ sự chuyển biến trong hành động (“tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ…”) đến sự chuyển biến trong tình cảm (“bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn đến ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”). Từ đó, họ nhận thức được sứ mệnh của mình: “Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra công đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.” Sự chênh lệch to về lực lượng và vũ khí không làm cho người nông dân chùn bước. Chúng với “hỏa mai, dao phay, súng ống” cũng ko bằng quần chúng ta mang lòng căm thù. “Manh áo vải, bao tấu, bàu ngòi, rơm con cúi…” công cụ đấu tranh thô sơ có lực lượng chỉ được huấn luyện trong thời gian ngắn – “chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm cho quân chiêu mộ”. Chính khí thế căm thù ngất xỉu trời đấy đã làm bọn giặc “hồn kinh”. Sức mạnh của quần chúng cần lao đã được khai phá. Trước hiểm nguy, họ ko trốn chạy, không mong cầu vào những người sở hữu chức trách bảo vệ mình, mà chính họ cầm cái cuốc, cái cày để giành lại tự do. Ngôn từ mộc mạc, câu văn ngắn tạo nhịp điệu dập dồn gợi buộc phải ko khí chiến đấu.
Đặc biệt nghệ thuật so sánh được vận dụng đắc địa, cho thấy tương quan lực lượng chênh lệch của ta và địch. Vượt lên trên những khó khăn ấy là ý thức nghĩa hiệp, xả thân vì nghĩa lớn của người nghĩa sĩ nông dân.
trung tâm gia sư thăng long cho rằng Đó là sức mạnh tiềm tàng cũng chính là nguồn cội sức mạnh dân tộc. Hình tượng người nông dân dưới dòng nhìn của nhà Nho Nguyễn Đình Chiểu đã với một bước tiến lớn, họ trở thành biểu tượng trọng điểm của văn học, biểu tượng cho sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Trung tâm giáo viên uy tín tphcm thấy có lối văn tế biền ngẫu, hình ảnh sóng đôi giàu sức gợi, vừa phác họa được người nghĩa sĩ đơn sơ, vừa là hình ảnh thực của bọn giặc cướp nước. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ca tụng sự hy sinh cao cả của các người nông dân. Họ đã nối kết vận mệnh, mảnh đất, vườn rau của mình mang vận mệnh thiêng liêng của Tổ quốc. Sự hy sinh cao cả của họ trên trận mạc khiến cho Đồ Chiểu vô cộng cảm phục và đau xót. Nguyễn Đình Chiểu hiểu rõ tâm hồn của họ hơn ai hết, phải ông không nuối tiếc lời biểu dương sự nghiệp cứu nước thần thánh của họ. Bài văn tế đã trở nên nguồn động lực cỗ vũ ý thức kháng chiến cho rộng rãi thế hệ Nam Bộ.